tin phap luat logo

 
 
 

Cải tạo không giam giữ

  • Cập nhật : 03/06/2014

 Buộc người phạm tội phải tự cải tạo dưới sự giám sát của cơ quan nhà nước hoặc tổ chức xã hội nơi họ làm việc hoặc cư trú qua việc phải thực hiện những nghĩa vụ nhất định.

Cải tạo không giam giữ là hình phạt chính trong hệ thống hình phạt của luật hình sự Việt Nam kể từ khi BLHS năm 1985 có hiệu lực. Đây là loại hình phạt không tước tự do, không buộc người phạm tội phải cách li khỏi gia đình, nơi làm việc cũng như xã hội nói chung. Nội dung chính của hình phạt này là sự giám sát, giáo dục của cơ quan, tổ chức nơi người bị kết án làm việc hoặc thường trú đối với người bị kết án. Nghĩa vụ mà người bị phạt cải tạo không giam giữ phải thực hiện có thể là nghĩa vụ báo cáo, tự kiểm điểm theo định kỳ... và còn phải nộp từ 5% đến 20% thu nhập để sung quỹ nhà nước (trừ trường hợp được miễn do điều kiện thực tế không cho phép). Thời gian cải tạo không giam giữ từ 6 tháng đến 3 năm.
 
Hình phạt cải tạo không giam giữ chỉ có thể được áp dụng cho người phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng, có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi thường trú rõ ràng và khi các điều kiện khác cho thấy họ có thể tự cải tạo, giáo dục mà không cần thiết phải bị cách ly khỏi xã hội. Trong BLHS năm 1985, hình phạt này được quy định chỉ có thể áp dụng cho người phạm tội không phải là quân nhân vì đối với người phạm tội là quân nhân có hình phạt cải tạo ở đơn vị kỷ luật của quân đội. Đó là hình phạt buộc người bị kết án phải cải tạo, giáo dục trong một đơn vị đặc biệt được thành lập cho việc thi hành hình phạt này. Hiện nay, hình phạt này đã bị loại bỏ trước hết do cách thức chấp hành hình phạt này không phù hợp với tính chất của hình phạt ... Do vậy, hình phạt cải tạo không giam giữ được áp dụng cho cả đối tượng là quân nhân.
 
Trong BLHS năm 1999, hình phạt cải tạo không giam giữ được quy định có sự hoàn thiện hơn và được quy định ở nhiều điều luật hơn (150 điều) so với BLHS năm 1985. Tuy nhiên, BLHS năm 1999 vẫn chưa quy định các ràng buộc pháp lý đảm bảo việc chấp hành nghiêm chỉnh hình phạt này. Đó là hậu quả pháp lý nặng hơn mà người bị án phải gánh chịu nếu họ không chấp hành nghiêm chỉnh hình phạt cải tạo không giam giữ.
Trở về

Xem thêm

    Bài cùng chuyên mục

    • 1

      Giải thích pháp luật

      Hoạt động nhằm làm sáng tỏ tư tưởng, nội dung, ý nghĩa của các nguyên tắc pháp luật, các khái niệm pháp lí, các điều luật hay các quy phạm pháp luật, đảm bảo cho pháp luật được nhận thức đúng đắn và thống nhất.

    • 2

      Giai đoạn phạm tội

      Các bước trong quá trình cố ý thực hiện tội phạm bao gồm: chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và phạm tội hoàn thành. Khái niệm GĐPT trong luật hình sự Việt Nam chỉ đặt ra đối với những tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp mà không đặt ra đối với những tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý gián tiếp hoặc vô ý.

    • 3

      Gây rối trật tự công cộng

      Hành vi gây rối trật tự công cộng là các hành vi xâm phạm đến con người, đến quyền hoặc lợi ích hợp pháp của họ hoặc xâm phạm đến sở hữu và diễn ra tại nơi công cộng. Trong đó, nơi công cộng được hiểu là những địa điểm “kín” (rạp hát, rạp chiếu bóng...) hoặc “mở” (sân vận động, công viên, đường phố...) mà ở đó các hoạt động chung xã hội được diễn ra thường xuyên hoặc không thường xuyên.

    • 4

      Dân chủ Đại diện

      Hình thức dân chủ chung nhất nếu xét từ góc độ cơ chế thực hiện quyền lực của dân; là chế độ, trong đó việc ra những quyết định chủ yếu thuộc thẩm quyền của hội nghị những người đại diện (vd. các đại biểu quốc hội).

    • 5

      Dân chủ tư sản

      Là chế độ chính trị - xã hội phát sinh và phát triển sau các cuộc cách mạng tư sản ở các nước Anh, Pháp, Hoa Kì, của phong trào công nhân, nông dân và của các trào lưu tôn giáo.

    • 6

      Các giai đoạn thực hiện tội phạm

      Các bước của quá trình thực hiện tội phạm cố ý được phân biệt với nhau bởi các dấu hiệu, biển hiệu nhằm đánh giá sự diễn biến mức độ thực hiện ý định phạm tội, làm cơ sở cho việc xác định phạm vi và mức độ trách nhiệm hình sự và hình phạt.

    • 7

      Cá thể hoá trách nhiệm hình sự

      Nguyên tắc pháp lí, đòi hỏi các cơ quan xét xử phải xem xét tính chất và mức độ nguy hiểm đối với xã hội của tội phạm, nhân thân người phạm tội, các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ để áp dụng hợp lí và có chọn lọc những biện pháp cưỡng chế hình sự và tố tụng hình sự đối với người phạm tội.

    • 8

      Đình chỉ vụ án

      Việc các cơ quan tố tụng quyết định kết thúc vụ án khi có những căn cứ luật định. Cơ quan điều tra, viện kiểm sát, toà án thụ lí vụ án đều có quyền ra quyết định ĐCVA. Ở giai đoạn điều tra, ĐCVA còn được gọi là đình chỉ điều tra vụ án. Ở Việt Nam, ĐCVA do toà án quyết định (điều 192, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 và điều 164, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003).