Đã 10 ngày trôi qua kể từ khi liên quân các nước Arab, do Saudi Arabia dẫn đầu, phát động cuộc không kích quy mô nhằm vào các mục tiêu của phiến quân Hồi giáo Houthi ở miền Nam Yemen và tiếp viện vũ khí cho các lực lượng trung thành với Tổng thống Ab-drabbu Mansour Hadi, chiến sự diễn ra ngày càng ác liệt.
Một trong những điểm giao tranh ác liệt nhất giữa lực lượng trung thành với Tổng thống phải đi lánh nạn A.Hadi và phiến quân Houthi trong tuần qua là thành phố cảng Aden.
Thành phố lớn thứ hai của Yemen này được xem là thành trì cuối cùng của lực lượng ủng hộ Tổng thống A.Hadi. Với sự hỗ trợ của liên quân, lực lượng trung thành với nhà lãnh đạo Yemen đã đẩy lùi các tay súng Houthi ở một số khu vực tại miền Trung Aden, trong đó có dinh thự của ông A.Hadi, vốn bị lực lượng này chiếm đóng thời gian qua.
Tuy nhiên, ghi nhận của báo chí 48 giờ qua cho thấy, chiến dịch không kích liên quân do Saudi Arabia đứng đầu, nhằm bảo vệ chính quyền hợp pháp của Tổng thống A.Hadi, mới chỉ dừng lại ở việc ngăn chặn bước tiến của phiến quân Houthi, chưa thể đẩy lui lực lượng này khỏi thành phố cảng chiến lược Aden.
Tình hình chiến sự tại Yemen diễn biến ngày càng phức tạp khiến dư luận quốc tế hết sức quan ngại.
Với mục tiêu tìm ra một giải pháp cho cuộc khủng hoảng tại quốc gia vùng Vịnh này, Nga vừa trình Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc (HĐBA LHQ) một dự thảo nghị quyết kêu gọi một lệnh tạm ngừng không kích nhân đạo. Là nước ủy viên thường trực HĐBA, Nga đã hối thúc cơ quan gồm 15 thành viên tiến hành phiên họp khẩn cấp và xem xét dự thảo nói trên với nội dung chính là yêu cầu liên quân tạm ngừng không kích để tạo điều kiện cho các nước liên quan và các tổ chức quốc tế sơ tán công dân nước ngoài khỏi Yemen.
Bày tỏ quan ngại về tình hình nhân đạo đang xấu đi nghiêm trọng tại đây, Mátxcơva đã yêu cầu lập tức thiết lập các kênh hỗ trợ để bảo đảm hàng cứu trợ đến với người dân. Song, văn kiện gói gọn trong một trang không nêu khung thời gian lệnh ngừng không kích có hiệu lực cũng như không đề cập tới những lời kêu gọi trước đó của HĐBA, yêu cầu phiến quân Houthi hạ vũ khí và trở lại bàn đàm phán. Vì thế, các nước ủy viên HĐBA tỏ ra khá thận trọng với đề xuất của Nga.
Lời kêu gọi khẩn thiết trên của Nga có cơ sở khi cuộc chiến không khoan nhượng giữa lực lượng trung thành với Tổng thống A.Hadi và phiến quân Houthi đang đẩy quốc gia hơn 23 triệu dân đứng trước nguy cơ thảm họa nhân đạo.
Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ của LHQ, đã có khoảng 600 người thiệt mạng và gần 1.700 người bị thương trong hai tuần giao tranh ác liệt vừa qua. Giám đốc Sở Y tế thành phố Aden Al-Kheder Lassouar lo ngại, số thương vong ngày càng tăng khiến các cơ sở y tế, bệnh viện của địa phương không đủ thuốc men và nguồn lực để cứu chữa. Vì thế, ông kêu gọi các tổ chức quốc tế cũng như các nước Arab đang tham gia liên quân chống Houthi cung cấp hỗ trợ y tế khẩn cấp cho các bệnh viện trong thành phố.
Tuy nhiên, tình hình chiến sự chưa có dấu hiệu hạ nhiệt khiến nhiều sân bay, cảng biển bị đóng cửa cản trở công tác vận chuyển và phân phối hàng cứu trợ cho người dân.
Không chỉ có sự đối đầu giữa Iran và Thổ Nhĩ Kỳ, cuộc chiến tại Yemen thời gian qua đã có tác động lớn đến chính sách ngoại giao của nhiều nước trong khu vực.
Sự đối đầu tôn giáo giữa một bên là liên minh các quốc gia có dòng Hồi giáo Sunni chiếm đa số với bên kia là các nước chịu ảnh hưởng của dòng Shiite chiếm đa số, trong đó có Iran. Vì thế, ngay sau khi liên quân Arab không kích Yemen, cả Iran và Syria đã lên tiếng phản đối khi gọi hành động này là "sự can thiệp từ bên ngoài vào công việc nội bộ Yemen".
Trong khi đó Thổ Nhĩ Kỳ và nhiều nước Arab lại cho rằng Iran hậu thuẫn cho lực lượng phiến quân Houthi. Với Mỹ, tuy không trực tiếp tham gia chiến dịch không kích đẩy lùi phiến quân Houthi do Saudi Arabia dẫn đầu nhưng chính quyền của Tổng thống Barack Obama đã cam kết hỗ trợ tình báo qua các vệ tinh do thám và công tác hậu cần.
Cuộc chiến ngày càng trở nên căng thẳng khiến hàng trăm nghìn người dân phải rời bỏ nhà cửa, tị nạn ở những nơi không bảo đảm điều kiện sinh hoạt với tương lai vô cùng mờ mịt.
Vừa mới đây, Chính phủ Nga có một động thái được đánh giá là khá kỳ lạ khi yêu cầu tập đoàn dầu khí khổng lồ của mình – Gazprom hạ giá khí đốt bán cho Ukraine.
Sự việc này tiếp sau và khá gần với thông báo của Chính phủ Ukraine quyết định ngưng mua khí đốt của Nga từ 1/4. Lý giải động thái này của Nga ra sao?
Chúng ta hãy quay lại thời gian giữa năm ngoái, khi giá dầu mỏ thế giới bắt đầu hạ nhanh, từ mốc trên 100 USD xuống mức loanh quanh 50 USD hiện nay, dự trữ ngoại tệ của nước Nga đã được dự báo sẽ giảm “không phanh” và nếu không có biện pháp hữu hiệu, nước Nga sẽ chỉ có thể đủ trụ vững trong vòng 2 năm. Để ngăn chặn việc người dân đi rút tiền hàng loạt khi giá USD lên đến 60 và sau đó trên 70 rub ăn 1 USD, Ngân hàng Trung ương Nga đã từng phải tăng lãi suất tiền gửi lên đến 17%, một con số có thể coi là kỷ lục.
Lệnh trừng phạt của phương Tây không chỉ nhắm vào các cá nhân của nước Nga, mà đòn giáng mạnh vào kinh tế Nga còn ở việc ngăn chặn những nguồn vốn bằng ngoại tệ chảy vào Nga, cũng như xiết chặt các khoản nợ đến hạn mà DN Nga phải trả song không được đáo hạn. Điều này làm nguồn ngoại tệ không còn chảy tiếp vào nước Nga mà ngược lại, chạy ra khỏi nước Nga.
Tháng Hai năm nay, bà Tatiana Nesterenko, Thứ trưởng Tài chính Nga đã thông báo nước này sẽ phải tiêu tới 3,2 nghìn tỷ rub (52,36 tỷ USD) từ dự trữ quốc gia bao gồm luôn cả khoảng 500 tỷ rub đã dự trù cho ngân sách tiêu pha. Thu ngân sách quốc gia Nga giảm thấp hơn nhiều do giá dầu giảm và cả lệnh trừng phạt từ phương Tây. Bà Tatiana Nesterenko cho biết Bộ tài chính dự kiến thâm hụt ngân sách của nước này có thể lên đến 3,7% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) thay vì mức dự kiến 0,6% trước đây.
Để đối phó, Nga đã đề ra chính sách xây dựng nền kinh tế tự chủ. Việc phát triển một nền kinh tế độc lập tự chủ, nghĩa là giảm tỷ trọng hàng nhập khẩu từ nước ngoài và tự sản xuất được phần lớn các hàng hóa cho nhu cầu trong nước, đòi hỏi phải có sự đầu tư mới cho nền sản xuất công nghiệp và do đó, sẽ cần một lượng vốn không hề nhỏ. Trong khi đó các nhà đầu tư phương Tây lại bị ngăn cản bởi lệnh trừng phạt.
Vì thế, hiện nay, nước Nga gần như chắc chắn phải đi tìm thêm nguồn đầu tư từ các nước còn chưa chịu ảnh hưởng của lệnh trừng phạt – trước hết là Trung Quốc. Tháng trước, trong một hội nghị về đầu tư tổ chức tại thành phố Krasnoyask (thành phố ở Siberia), Phó Thủ tướng Nga ông Arkady Dvorkovich cho biết, Nga có thể cân nhắc cho phép các nhà đầu tư Trung Quốc mua đến 50% cổ phần trong các công ty dầu khí Nga.
Trong hoàn cảnh quan hệ Nga – Phương Tây xấu đi do vấn đề Ukraine, lệnh trừng phạt vẫn tiếp tục duy trì; thì rõ ràng TQ nổi lên trở thành đối tác quan trọng. Ông Dvorkovich nói: “Chúng ta đã có quan hệ đối tác chiến lược với TQ và quyết định sẽ thúc đẩy quan hệ này phát triển mạnh mẽ hơn nữa. Một hợp đồng khí đốt đã có và một hợp đồng thứ hai chắc chắn sẽ được ký.”
“Hợp đồng thứ nhất” mà ông Dvorkovich đề cập chính là hợp đồng của Gazprom bán khí đốt cho Trung Quốc trị giá 400 tỷ USD, với số lượng 39 tỷ mét khối khí đốt từ năm 2019, đánh dấu sự cố gắng của V.Putin xích lại gần Trung Quốc từ khi nước Nga bị áp đặt lệnh trừng phạt. Từ trước đến nay, nước Nga chỉ có một hướng bán khí đốt duy nhất là sang châu Âu. Chính sách này của nước Nga, chính là một phần “Trục Đông” của nó – nhưng nước Nga đã không hoàn thành được phần lớn các thỏa thuận kiểu như thế này, và do đó đã xuất hiện những e ngại từ phía những nhà đầu tư châu Á trong việc cung cấp tài chính cho các công ty và ngân hàng Nga.
“Putin đang ở một tình thế khó khăn, và tăng cường quan hệ với Trung Quốc chính là giải pháp giúp ông thoát khỏi tình trạng khó khăn đó” – một quan chức cấp cao ngành dầu khí Trung Quốc, nhận định. “Trước đây, việc cho phép đầu tư vào hạ tầng dầu khí là rất khó từ phía tổng thống Putin, nhưng bây giờ thì tình hình đã thay đổi, cơ hội đã có.”
Đến đây, có thể thấy câu trả lời cho động thái “lạ” của Nga, yêu cầu Gazprom giảm giá khí đốt cho Ukraine, dần hiện rõ.
Động thái này cho thấy một điều là Nga đang tìm cách hạ nhiệt căng thẳng trong khu vực; để tìm cách lách ra khỏi lệnh trừng phạt của Phương Tây trong nỗ lực để kéo mình ra khỏi tình trạng suy thoái kinh tế trước khi nó trở nên nghiêm trọng hơn. Đây không phải là lần đầu tiên Nga sử dụng giá khí đốt hoặc những khoản tiền khác từ khí đốt, để có được những nhượng bộ có lợi về chính sách của Chính phủ Kiev dành cho Moscow.
Năm 2009, một thỏa thuận khí đốt đã được ký giữa V.Putin và Cựu thủ tướng Ukraine Yulia Tymoshenko để Ukraine có thể tiếp tục được cung cấp khí đốt từ Nga. Ngay sau đó bà Tymoshenko đã bị kết án 7 năm tù. Tuy nhiên, trong những năm sau đó, Moscow đảm bảo mức chiết khấu bán khí đốt cho Ukraine lên tới 30%, đổi lại là quyền tiếp tục được thuê quân cảng Sevastopol thuộc bán đảo Crimea (nay đã thuộc về Nga.)
Từ khi cuộc khủng hoảng Crimea của Ukraine diễn ra đến nay cùng chiến sự tại vùng li khai Donesk và Luhansk, Ukraine đã tìm cách “cai sữa” khí đốt từ Nga. Tháng trước, Thủ tướng Ukraine Arseniy Yatsenyuk đã nói nước này sẽ cố gắng đề nghị một khoản vay 1 tỷ USD từ EU để xây dựng một hệ thống chuyển đổi sang dùng khí hóa lỏng mua từ châu Âu. Đây là một dự án khó khăn và khá dài hơi, chưa thể thực hiện được ngay lập tức, do đó việc tiếp tục mua khí đốt từ Nga vẫn là cần thiết.
Các đề xuất của Ủy ban châu Âu và Ukraine vẫn đang hướng tới việc Gazprom giảm giá khí đốt cho cả 6 tháng, nhưng Công ty Nga thì chỉ đồng ý với thời hạn 3 tháng. Thỏa thuận này chưa đạt được và gần như Ukraine chắc chắn sẽ từ chối nếu như Công ty Nga không nhượng bộ.
Hiện nay Ukraine đang lâm vào thế kẹt – họ đang có được gói viện trợ 40 tỷ USD từ Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), nhưng điều kiện của nó là tiến hành cải cách kinh tế của đất nước, trong đó có việc tái cơ cấu lại các khoản nợ - mà chắc chắn điều này sẽ dẫn đến thiệt hại cho các chủ nợ hiện nay của Ukraine.
Vấn đề là, Ukraine vẫn đang nợ của Nga. Nguồn tin báo của tờ Business Insider cho biết, khoản Ukraine vay từ Quỹ thịnh vượng của Nga do đã được trả 3 tỷ USD vào tháng Mười hai năm trước, nên Kiev hi vọng khoản nợ 5,2 tỷ USD sẽ phải trả cho Nga trong năm 2015 này, có thể sẽ thương lượng lại được. Tuy nhiên, do khoản vay này được tính là khoản “vay chính thức” nên mọi thỏa thuận thanh toán song phương (Ukraine và Nga) sẽ vi phạm định chế của IMF, đồng nghĩa với việc IMF sẽ không tiếp tục tài trợ cho Ukraine.
Như vậy “bác khó tôi cũng chẳng hơn gì” – Ukraine gặp khó thì kéo theo các nhà tài trợ Phương Tây cũng gặp khó theo, còn tình thế của nước Nga – Putin thì đã rõ ràng. Chúng ta hãy nhớ lại, chính V.Putin mới đây tiếp tục kêu gọi các tỷ phú Nga mang tiền về nước, cũng cho thấy kinh tế nước Nga đã bắt đầu thiếu hụt ngoại tệ. Phải chăng những động thái này, sẽ làm tình hình căng thẳng của cuộc khủng hoảng Ukraine, hạ nhiệt?
------------------------
Ukraine: Những bài học của một cuộc chiến chưa bao giờ xảy ra
Cuộc khủng hoảng ở Ukraine đã trở thành bài kiểm tra quan trọng đầu tiên cho Các lực lượng vũ trang Nga được cải cách với một “diện mạo mới”. Trớ trêu thay, họ nhận ra mình đang ở bên bờ vực của cuộc đối đầu quân sự với Ukraine, nhà nước hậu Xôviết mạnh thứ 2 về quân sự sau Nga.
Sự can thiệp âm thầm của Nga vào Crimea vào cuối tháng 2 và đầu tháng 3/2014 đã làm cho nhiều người sững sờ và khiến một số nhà quan sát ở phương Tây và Ukraine bàn luận về một “cuộc chiến tranh hỗn hợp” mới. Hoạt động nhằm cung cấp sự trợ giúp về sức mạnh cho phong trào ly khai ở Crimea và ngăn cản sự can thiệp của các lực lượng an ninh Ukraine đã được lên kế hoạch và tiến hành một cách khá tài tình và hiệu quả.
Như đã biết hiện nay, Lực lượng không vận Nga, Lực lượng đặc nhiệm Spetsnaz và Các lực lượng có mục đích đặc biệt mới ra mắt đã đóng vai trò là “polite people” (chỉ các lực lượng không chính quy của Nga ở Ukraine).
Chiến dịch ở Crimea đã diễn ra cùng với một cuộc kiểm tra khả năng sẵn sàng chiến đấu bất ngờ do Tổng thống Putin ra lệnh ở Quân khu miền Tây và một phần Quân khu Trung tâm vào ngày 26/2/2014.
Các mục tiêu được tuyên bố của cuộc kiểm tra đã được thực hiện bằng việc triển khai quân đội ở hầu hết địa điểm cách xa biên giới Ukraine cho đến các khu vực khác của Nga, gồm cả các khu vực phía Bắc.
Điều này đã giúp che giấu việc bố trí lại vài nghìn binh sỹ của Spetsnaz và Lực lượng không vận đến Crimea, cùng với việc bố trí lại các đơn vị quân sự đến biên giới Ukraine như là một hình thức gây áp lực đối với Kiev để ngăn Kiev sử dụng sức mạnh quân sự ở Crimea.
Trong việc triển khai tác chiến, các đơn vị và tổ đội của quân đội Nga đã cho thấy một mức độ sẵn sàng chiến đấu và cơ động rất cao. Vào ngày 12/3/2014, Lữ đoàn Bộ binh Cơ giới số 18 từ Chechnya đã đến Crimea, hành quân 900 km đến Eo biển Kerch. Tiếp sau đó là Lữ đoàn Pháo binh số 291 đến từ Ingushetia. Với các máy bay vận tải quân sự cung cấp cầu không vận, việc tái bố trí quân đã được tiến hành nhanh chóng một cách ấn tượng.
Trên thực tế, tất cả tổ đội sẵn sàng chiến đấu từ khu vực trung tâm của Quân khu miền Tây và một số lực lượng từ Quân khu miền Nam và Quân khu Trung tâm đã được tái triển khai đến biên giới tiếp giáp Ukraine vào tháng 3 và tháng 4.
Các lữ đoàn bộ binh cơ giới đã di chuyển bằng các xe bọc thép chuyên chở BTR-89/82. Theo ước tính của phương Tây, đến cuối tháng 4/2014, khoảng 80.000 binh sỹ đã tập hợp tại biên giới với Ukraine (bao gồm cả Crimea), trong đó có 40.000 quân trong các đơn vị chiến đấu.
Các báo cáo của phương Tây nói rằng 8 lữ đoàn (3 lữ đoàn bộ binh cơ giới, 3 lữ đoàn tấn công đường không, 1 lữ đoàn lính thủy đánh bộ, và 1 lữ đoàn pháo binh), 4 trung đoàn thuộc Sư đoàn số 2 và số 4 (3 trung đoàn xe tăng và 1 trung đoàn bộ binh cơ giới), 27 tiểu đoàn chiến thuật (14 tiểu đoàn không vận, 12 tiểu đoàn bộ binh cơ giới và 1 tiểu đoàn lính thủy đánh bộ), 13 lực lượng đặc nhiệm và lên tới 10 tiểu đoàn pháo binh riêng biệt đã được triển khai gần biên giới Ukraine vào tháng 4.
Các lực lượng này đông hơn nhiều so với quân đội Ukraine mà việc động viên được thông báo hồi tháng 3 đã diễn ra rất chậm chạp, một phần bởi các khu vực căn cứ của Ukraine chủ yếu nằm ở các khu vực miền Tây của nước này – như trong thời Xôviết.
Việc Nga triển khai quân một cách nhanh chóng ở Crimea và ở biên giới với Ukraine cũng như ngăn chặn các lực lượng Ukraine trên bán đảo này thực tế đã khiến Kiev không thể đưa ra bất kỳ biện pháp đối phó hiệu quả nào. Kết quả là, vào ngày 17/3, Crimea đã được sáp nhập vào Nga, chưa đến 1 tháng sau khi bắt đầu chiến dịch.
Sự kiện sáp nhập Crimea đã truyền cảm hứng cho cộng đồng nói tiếng Nga ở các khu vực miền Nam và miền Đông Ukraine. Các cuộc phản kháng và chiếm giữ các tòa nhà của chính phủ đã diễn ra trên khắp Ukraine từ đầu tháng 4/2014, và các nhóm vũ trang xuất hiện ở Donbass đã tuyên bố thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Lugansk và Cộng hòa Nhân dân Donetsk (LPR và DPR).
Tuy nhiên, chính quyền mới của Ukraine đã bắt đầu một chiến dịch quân sự ở Donbass, đưa quân đến để đàn áp những người đòi ly khai.
Theo các biểu hiện bề ngoài, giới lãnh đạo của Nga đã không sẵn sàng cho phản ứng kiên quyết của Ukraine, đặc biệt là giữa các biện pháp trừng phạt ngày càng gia tăng của phương Tây. Vào ngày 24/4/2014, Hội đồng An ninh Nga đã quyết định phản đối việc gửi quân đến Ukraine.
Vào tháng 5, Nga đã bắt đầu rút một lượng lớn binh lính của nước này khỏi biên giới Ukraine. Vào ngày 1/6, đáp lại yêu cầu của Điện Kremlin, Hội đồng Liên bang đã rút lại sự cho phép chính thức đối với việc sử dụng quân đội ở Ukraine.
Những hậu quả thật là tai hại: Kiev đã tự do hành động, và miền Đông Ukraine đã rơi vào một cuộc nội chiến đẫm máu. Cuối cùng, nội chiến ở Donbass đã buộc Nga phải tăng cường sự trợ giúp cho quân nổi dậy đòi ly khai của DPR và LPR.
Chiến thuật này đã lên đến đỉnh điểm với sự thất bại của các lực lượng của Ukraine vốn đã mệt mỏi gần Ilovaisk vào cuối tháng 8. Vào tháng 7, Nga lại bắt đầu tăng cường sự hiện diện của quân đội nước này ở biên giới Ukraine, rõ ràng với ý định kiềm chế hoạt động của quân đội của Ukraine chống lại quân nổi dậy.
Nhưng vì không có cuộc chiến tổng lực nào xảy ra giữa Nga và Ukraine, việc đưa “diện mạo mới” của quân đội vào một bài kiểm tra khắt khe hơn là điều không thể. Tuy nhiên, người ta có thể nói rằng khái niệm tổng thể về cải cách quân đội Nga được hình thành vào năm 2008 đã tỏ ra là đúng đắn và giới lãnh đạo Nga đã có được một lực lượng quân đội sẵn sàng thường trực tương đối hiệu quả có khả năng tiến hành các chiến dịch trên quy mô lớn trong không gian hậu Xôviết mà không cần phải động viên hay tăng cường.
Một bước đột phá lớn đã được thực hiện trong lĩnh vực hậu cần. Sau chiến dịch Gruzia, quân đội Nga trong nhiều năm qua đã tăng cường các năng lực cơ động chiến lược của mình và luyện tập triển khai trên các phạm vi rộng lớn, điều tỏ ra rất hữu ích trong cuộc khủng hoảng Ukraine.
Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng Ukraine một lần nữa đã cho thấy rằng điểm yếu của quân đội Nga là số lượng lính nghĩa vụ chiếm phần lớn, thời gian thực hiện nghĩa vụ quân sự bị giảm đi (1 năm) và thiếu quân nhân phục vụ theo hợp đồng.
Mặc dù Nga đã tuyên bố mục đích của việc tạo ra một quân đội sẵn sàng thường trực, nhiều đơn vị và tổ đội quân sự đã không được sử dụng trọn vẹn trong năm 2014 do sự thiếu hụt binh sỹ ở phần lớn các đơn vị và tính chất chu kỳ của việc huấn luyện lính nghĩa vụ.
Kết quả là, các tổ đội “sẵn sàng thường trực” chỉ có thể gửi không quá 2/3 số binh sỹ đến khu vực tác chiến, để lại các binh sỹ chưa được huấn luyện được tuyển mộ trong mùa Thu.
Một vấn đề nghiêm trọng khác là quân dự bị. Cho đến giờ không có mô hình quân dự bị tối ưu nào hiệu quả đối với “diện mạo mới”. Ngoài ra, vẫn không có cơ chế rõ ràng nào cho việc triển khai các đơn vị và tổ đội bổ sung và thay thế binh sỹ hy sinh trong thời chiến.
Trái ngược với ảo tưởng chung (ở cả phương Tây lẫn ở Nga) rằng một quân đội nhỏ gọn với quân dự bị vừa phải sẽ là đủ trong thời bình, thực tế đòi hỏi rằng các kho dự trữ lớn vũ khí hạng nặng và trang thiết bị, có thể sánh được với các kho dự trữ thời Xôviết, phải được duy trì cho ngay cả một cuộc chiến tranh nhỏ. Bởi vì chi phí để duy trì nguồn lực dự phòng như vậy sẽ rẻ hơn nhiều so với việc điên cuồng lao vào sản xuất vũ khí mới trong trường hợp có chiến tranh.
Cuộc xung đột ở Ukraine cũng bộc lộ khả năng dễ bị tổn hại của các trang thiết bị quân sự trước các vũ khí hiện đại. Trên thực tế, những tổn thất về xe bọc thép (phần lớn là xe tăng), máy bay và trực thăng của Ukraine trong một cuộc chiến không lớn lắm là điều gây choáng váng.
Sử dụng một số lượng tương đối nhỏ các hệ thống phòng không, quân nổi dậy trên thực tế có thể làm tê liệt các hoạt động chiến đấu của Không quân Ukraine. Các xe tăng T-64 bị phá nát đã trở thành một trong những biểu tượng khủng khiếp của cuộc xung đột ở Donbass. Và điều này đòi hỏi một cách tiếp cận hoàn toàn mới để bảo vệ các vũ khí quân dụng hạng nặng quan trọng.
------------------------