Liên quan đến bản án sinh viên Hoàng Trưng (huyện Nghi Lộc, Nghệ An) bị kết tội cướp giật, làm việc với Công an (CA) TP.Vinh, chúng tôi nhận được những câu trả lời mâu thuẫn và từ chối đối chất với bị hại để làm rõ sự thật.
Công văn của CA TP trả lời đơn của ông Tiến, khẳng định đơn “không có cơ sở
Theo hồ sơ vụ án, vụ cướp xảy ra vào 17h, nhưng chị Trần Thị Tú Oanh và Nguyễn Thị Lệ Hằng xác nhận lúc này đã vào lớp học. Hồ sơ vụ án cũng thể hiện, bà Đặng Thị Thành (mẹ chị Oanh) và chị Oanh cùng đến cơ quan CA TP.Vinh trình báo vào 19h35’ cùng ngày. Trong khi, bà Thành khẳng định gia đình không đến cơ quan chức năng nào để trình báo. “Nếu có phiên toà nào nữa, tôi sẵn sàng đứng ra để nói sự thật” - mẹ con bà Thành khẳng định.
Chúng tôi có buổi làm việc với trung tá Lê Đức Cẩm - cán bộ CA TP.Vinh, điều tra viên chính - chiều 18.11.2014. Ông Cẩm cho biết: Sau khi Lê Văn Nhi đầu thú ngày 20.7.2013, khai ra Hoàng Trưng, vào khoảng 17h ngày 20.7.2013, hai CA là ông Đáng và ông Tuyết đến nhà Hoàng Trưng để triệu tập làm việc.
Sau đó, CA TP.Vinh cho Hoàng Trưng về, nhưng ngay sau đó, xác định đúng Hoàng Trưng phạm tội nên đã tiến hành bắt khẩn cấp Hoàng Trưng. Thời điểm bắt là 18h, vị trí bắt trước TT GDTX tỉnh (đường Nguyễn Đức Cảnh). Khi chúng tôi đặt nghi vấn khoảng cách từ TP.Vinh đến nhà Hoàng Trưng khoảng 10km, nếu 17h triệu tập, dẫn giải, rồi làm việc, cho về, đến 18h lại bắt khẩn cấp thì không hợp lý, ông Lê Đức Cẩm liền “đính chính” thời gian triệu tập “khoảng 16h”(?). Chúng tôi hỏi “xuất hiện căn cứ gì để bắt Hoàng Trưng”, ông Cẩm giải thích, căn cứ đó xuất hiện “trong quá trình làm việc”(?).
Chúng tôi hỏi: "Tại sao trong biên bản bắt Hoàng Trưng ghi “không tạm giữ đồ vật tài liệu gì” nhưng trong hồ sơ vụ án lại xuất hiện xe máy và điện thoại?", ông Lê Đức Cẩm giải thích, hai đồ vật này Hoàng Trưng mang theo, nhưng sau đó giao nộp lại(?). Cách giải thích này là nguỵ biện, bởi chính trong biên bản bắt Hoàng Trưng đã ghi rõ:“Khi tiến hành khám người bị bắt, chúng tôi đã phát hiện và tạm giữ những đồ vật, tài liệu sau:…”. Theo nguyên tắc, mọi đồ vật, tài liệu mà nghi can mang theo đều phải được lập biên bản tạm giữ tại thời điểm cơ quan chức năng tiến hành bắt giữ và điều này phải được thể hiện trong biên bản bắt người.
Khi chúng tôi nêu vấn đề có sự “vênh” nhau trong kết luận điều tra (KLĐT) và bản án phúc thẩm về thời điểm xảy ra vụ án (bản KLĐT ngày 24.10 ghi “khoảng 16h”, bản án phúc thẩm ngày 30.6.2014 ghi, các bị cáo đều khai nhận cướp vào 17h), ông Lê Đức Cẩm chống chế, do thời gian quá lâu nên không thể nhớ cụ thể, chỉ là “khoảng”. Mặt khác, cả hai nghi can đều “khai nhận” tiến hành vụ cướp vào cùng một thời điểm, vậy tại sao các hồ sơ lại có độ “vênh” đến 1 tiếng đồng hồ?
Công an từ chối đối chất
Chúng tôi nêu ra hàng loạt bằng chứng về việc vụ án có dấu hiệu không bình thường khi lập hồ sơ: Số tiền bị cướp theo bị hại khoảng 100.000 đồng, nhưng hồ sơ thể hiện các bị cáo “khai nhận” cướp 1 triệu đồng; bị hại không trình báo thì biên bản nói nạn nhân trình báo … Thay vì trả lời, ông Lê Đức Cẩm cho rằng, mọi vấn đề đã thể hiện trong hồ sơ. Chúng tôi đề xuất phương án tổ chức đối chất các bên để làm rõ các vấn đề còn mâu thuẫn, nhưng ông Lê Đức Cẩm từ chối. Trước nghi vấn: “Tại sao Lê Văn Nhi đã đầu thú (tự nhận tội), sau đó lại chối tội, kêu oan?”. Ông Lê Đức Cẩm nói: “Cái đó chỉ có Lê Văn Nhi mới biết được”. Trong đơn kêu oan gửi Viện trưởng Viện KSND Tối cao, Hoàng Trưng khẳng định bị đưa lên CA huyện Nghi Lộc vào đêm 19.7.2013, sau đó bị đưa lên CA TP.Vinh và bị treo lên để đánh đập, buộc phải khai có hành vi cướp giật.
Như vậy, một vụ cướp giật từ thời điểm diễn ra hành vi phạm tội đến khi nghi can “đầu thú” là hơn 4 tháng; không có nhân chứng; người bị hại không trình báo; tài sản bị hại mất đã bị khai vống lên gấp 10 lần; hồ sơ vụ án có nhiều sai lệch, mâu thuẫn... Theo chúng tôi, các cơ quan chức năng cần làm rõ những dấu hiệu rất bất thường trong vụ án này.
Theo: LĐ